Tọa đàm “Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội trong việc thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị”

Chất thải rắn sinh hoạt 20/02/2023

Năm 2021, Quốc hội đã ban hành 2 nghị quyết gồm Nghị quyết số 32/2021/QH15 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 và Nghị quyết số 16/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, đặt mục tiêu về tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 89-90%, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%.

Năm 2021, Quốc hội đã ban hành 2 nghị quyết gồm Nghị quyết số 32/2021/QH15 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 và Nghị quyết số 16/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, đặt mục tiêu về tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 89-90%, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%.

Quang cảnh buổi tọa đàm

Theo chỉ đạo của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, tới đây, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ tổ chức Phiên giải trình về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt trong thời gian tới. Trong đó, tập trung vào các vấn đề nổi cộm trong việc thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt, công nghệ xử lý; cơ chế tài chính và các nguồn lực đầu tư cho xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại các địa phương.

Để làm rõ, xác định trách nhiệm của các bộ ngành, tổ chức liên quan và người dân, đồng thời đề xuất lộ trình khắc phục những hạn chế nêu trên, Báo điện tử Đại biểu Nhân dân tổ chức Tọa đàm trực tuyến “Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội trong việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt đô thị" nhằm trao đổi, ghi nhận ý kiến của Đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà quản lý, cử tri về thực trạng công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt và những tồn tại, khó khăn và thách thức ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị các giải pháp tổng thể theo hướng thống nhất, nhằm mục tiêu quản lý chất thải rắn sinh hoạt tốt hơn, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường trong thời gian tới.

Khách mời tham gia Tọa đàm có:

- Ông Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội;

- Ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam

- Ông Nguyễn Minh Lâm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An

- Ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường

- Ông Trần Hợp Dũng, Phó trưởng ban Đô thị, HĐND thành phố Hà Nội

- Ông Nguyễn Anh Dũng, Cán bộ cao cấp, Hợp phần năng lượng tái tạo, Dự án 4E, Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ) tại Việt Nam

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Các đại biểu tại buổi tọa đàm

Thực trạng quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt đô thị

Theo số liệu ước tính, hiện nay trên cả nước lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm 60%. Đến năm 2025, tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt dự báo tăng 10-16%/năm. Riêng các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, mỗi ngày có từ 7.000 - 9.000 tấn rác thải. Trong khi đó, hệ thống công trình hạ tầng đô thị chưa được phát triển đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là tại các bãi chôn lấp, đã và đang là vấn đề bức xúc đối với xã hội.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, công tác quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt ở Việt Nam thời gian qua còn nhiều bất cập như tỷ lệ tái chế còn thấp; phương thức xử rác thải lý chủ yếu là chôn lấp nên không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật; công nghệ xử lý lạc hậu... Ông đánh giá như thế nào về vấn đề này?

Ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường:

Phương thức xử lý rác thải từ khâu phát sinh đến khâu thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải rắn sinh hoạt trong thực tế còn tồn tại nhiều bất cập. Quá trình phát triển kinh tế, đô thị hoá diễn ra rất nhanh, khiến cho tỷ lệ lượng rác thải tăng nhanh, tăng 10-16%/ năm, trong khi điều kiện hạ tầng chưa theo kịp. Ví dụ, về khâu quy hoạch, khâu dự báo để quy hoạch, các khâu từ tập kết, đưa về các điểm trung chuyển ở đô thị không có mái che, mưa gió khiến rác rò rỉ ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm hay ô nhiễm không khí… Các nước tiên tiến trên thế giới có hệ thống lưu giữ tạm thời tập kết nửa nổi nửa chìm, hoặc chìm hẳn, để thực hiện điều này cần có sự đầu tư.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ tại buổi tọa đàm

Công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn ở nước ta chưa tốt, mới mang tính chất khuyến khích, chưa bắt buộc áp dụng. Một số dự án thí điểm triển khai nhưng không thành công do hạ tầng, điều kiện kỹ thuật chưa có. Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, có thể phân loại rác thải theo 3 loại: rác thải có thể tái chế được, rác thải thực thẩm và rác thải để xử lý. Nhưng chứa chất thải bằng gì, phương tiện vận chuyển gì, công nghệ gì thì cần giải pháp căn cơ và đồng bộ mới triển khai thực hiện được.

Liên quan đến vấn đề xử lý rác thải hiện nay có trên 70% được xử lý bằng phương thức chôn lấp, trong đó, chỉ có 15% rác thải chôn lấp hợp vệ sinh. Yêu cầu của bãi chôn lấp hợp vệ sinh theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCVN 261:2001 của Bộ Xây dựng trước đây quy định rất kỹ từ thiết kế vật liệu kỹ thuật, dẫn nước, thu khí, thu nước rỉ rác… Vấn đề xử lý nước rỉ rác là một việc rất phức tạp và tốn kém, đặc biệt là với công nghệ chôn lấp khi chúng ta không thu gom được khí mê-tan, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến khí nhà kính. Do vậy, công nghệ là vấn đề lớn hiện nay. Chúng ta cũng có một số công nghệ khác như công nghệ đốt, công nghệ ủ…, nhưng thực tế vẫn là công nghệ đốt là chính. Trong thời gian tới, chúng ta phải đi từ nguồn rác phân loại, trên cơ sở đó sẽ có lựa chọn công nghệ phù hợp hơn.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam, ông đánh giá thực trạng về chất thải rắn ở nước ta như thế nào? Các phương pháp xử lý chất thải rắn sinh hoạt hiện nay có đáp ứng được nhu cầu phát triển bền vững của đất nước?

Ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam:

Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam Nguyễn Quang Huân chia sẻ tại tọa đàm

Đặc thù rác thải sinh hoạt ở nước ta là không phân loại, độ ẩm rác rất cao, thường ở mức 65-70%. Đây là nguyên nhân gây ra nhiệt trị rất thấp khi đốt rác. Vì những đặc điểm này, chúng ta phải tìm những công nghệ phù hợp để xử lý, không phải chỉ vì nhiệt trị thấp mà không đốt rác phát điện. Theo quan điểm cá nhân của tôi, chúng ta phải tìm được công nghệ xử lý rác mà không cần phân loại tại nguồn. Vì để phân loại tại nguồn như các nước phát triển thì phải tương ứng với hạ tầng, chúng ta đã thực hiện thí điểm phân loại tại nguồn nhưng khi thu gom lại trộn lẫn với nhau nên không có hiệu quả.

Điều 75 và 76 trong Luật Bảo vệ môi trường đã quy định rõ việc phân loại, lưu giữ, tập kết, chuyển giao rác thải sinh hoạt, nhưng để thực hiện tốt thì cần có một thời gian để thay đổi ý thức của người dân. Trong khi đó lượng rác thải vẫn phát sinh, ngày càng tăng nhiều hơn. Khi đời sống người dân tăng lên, tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh trung bình 1 kg rác sinh hoạt/người/ngày hoặc thậm chí hơn. Nhưng các vùng nông thôn thì chỉ 0,4-0,5 kg/nguời/ngày. Thậm chí theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, có địa phương chỉ 0,2 kg/người/ngày. Vì vậy, tùy vào lượng rác mà chúng ta nên đưa công nghệ phù hợp chứ không nhất thiết phải dùng những công nghệ đắt tiền hoặc lúc nào cũng phải đốt rác. 

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Trần Hợp Dũng, Phó trưởng ban Đô thị, HĐND thành phố Hà Nội, được biết Hà Nội đang đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát điện tại Nam Sơn (huyện Sóc Sơn) và Xuân Sơn (thị xã Sơn Tây) trước áp lực rác thải sinh hoạt gia tăng và chưa được xử lý đúng tiêu chuẩn. Qua các đợt giám sát của HĐND thành phố, xin ông cho biết công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt hiện được tiến hành ra sao?

Ông Trần Hợp Dũng, Phó trưởng ban Đô thị, HĐND thành phố Hà Nội: 

Phó trưởng ban Đô thị, HĐND thành phố Hà Nội Trần Hợp Dũng chia sẻ tại tọa đàm

Hiện nay không chỉ trong lĩnh vực môi trường mà ở rất nhiều lĩnh vực khác chúng ta vẫn yếu trong khâu dự báo. Như Hà Nội là địa phương đứng thứ hai trong cả nước về mức độ rác thải, đây cũng là địa phương mỗi năm trung bình dân số tăng đến 200.000 người. Điều này gâp áp lực lớn lên ngành môi trường.

Trong bối cảnh ấy, chính quyền thành phố Hà Nội đã có những chỉ đạo quyết liệt trong vấn đề thu gom, xử lý rác thải. Đến nay, công tác thu gom, xử lý rác thải tại Hà Nội đã có những chuyển biến tích cực. Đặc biệt là sau khi Nghị định 32/2019/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định 130/2013/NĐ-CP, công tác thu gom, xử lý rác ở đại đa số 30 quận, huyện của Hà Nội đã được tổ chức đấu thầu. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, tồn tại… như vướng mắc tại các điểm trung chuyển. Tại Hà Nội có những điểm dân cư, xóm, ngõ, làng có cự ly rất xa với các điểm thu gom rác… Do đó, việc thu gom, xử lý rác theo định mức đơn giá hiện tại sẽ khó thực hiện, nếu không có các điểm trung chuyển phù hợp. Tuy nhiên, đây được coi là một trong những bước tiền đề đầu tiên trong vấn đề cạnh tranh công bằng, minh bạch trong ở lĩnh vực thu gom, xử lý rác thải.

Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại về cơ sở hạ tầng. Thực tế, hiện nay các xe chờ để lấy rác, các điểm chứa rác vẫn còn thiếu, chưa hiện đại, khiến rác thải tồn ứ, gây tắc nghẽn giao thông. Những tồn tại ấy chính quyền Hà Nội cũng đã nhận ra và có hướng giải quyết như tăng chế tài đối với các đơn vị thực hiện dịch vụ thu gom, xử lý rác còn chậm, chưa tốt… Do đó, trong lĩnh vực đấu thầu dịch vụ công tại Hà Nội có những đơn vị chỉ có thời hạn 3 năm, có đơn vị là 5 năm. 

Khi HĐND thành phố Hà Nội vào cuộc giám sát, năm 2017, Hà Nội đã có phiên giải trình về lĩnh vực tài nguyên môi trường và đặc biệt là tập trung vào vấn đề thu gom, xử lý rác thải. Hiện nay HĐND đã giao cho Ban Đô thị giám sát thật chặt các dự án xây dựng nhà máy xử lý rác thải tại Nam Sơn, huyện Sóc Sơn. Bên cạnh đó, Hà Nội đầu tư xây dựng hai nhà máy xử lý rác thải lớn nhất là Nhà máy Thiên Ý với công suất 4.000 tấn và Khởi công Nhà máy Điện rác Seraphin công suất 1.500 tấn, tại thị xã Sơn Tây. Tuy nhiên, do dịch Covid-19 khiến Nhà máy Thiên Ý phải tạm dừng hoạt động. Nhà máy Điện rác Seraphin cũng phải thay đổi công nghệ để tiệm cận với công nghệ mới.

Bên cạnh đó, việc điều chỉnh quy hoạch liên quan đến quy hoạch mạng lưới phát điện cũng đã gây ra nhiều bất cập cho công tác xây dựng các nhà máy điện rác. Trước tình hình đó, Hà Nội cũng đã rất quyết liệt hỗ trợ các nhà đầu tư, trong thúc đẩy xây dựng các nhà máy xử lý tác ở ở điểm khác.

Đặc biệt, Hà Nội đang tổ chức thực hiện lại việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và phân cấp quản lý. Theo đó, chuyển chức năng, nhiệm vụ từ Sở Xây dựng sang Sở Tài nguyên và Môi trường để thống nhất. Ngoài ra, Hà Nội cũng ban hành Quyết định 14/2011/QĐ-UBND Hà Nội thay thế Quyết định 41/2016/QĐ-UBND Hà Nội về phân cấp. Đặc biệt là phân cấp cho các đơn vị cơ sở tại 30 quận, huyện trong vấn đề là thu gom, xử lý rác cũng như tổ chức đấu thầu các dự án xử lý, thu gom rác thải nhằm làm tăng tỷ lệ thu gom rác trong ngày.

Chúng tôi cũng rất mong nhận được sự quan tâm nhiều hơn của các Bộ, ngành và cơ quan báo chí nhằm tuyên tuyền thêm cho người dân chung tay trong vấn đề thu gom, xử lý rác thải.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Văn An, Uỷ viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thực tế trong công tác hoạch định chính sách, ông nhìn nhận những thuận lợi, khó khăn gì trong công tác xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam?

Ông Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:

Rác thải luôn là vấn đề nóng, bức xúc ở nhiều địa phương nước ta. Trên thực tế, câu chuyện tỷ lệ chôn lấp rác thải đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống nhân dân, đến định hướng phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân. Thời gian qua, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước có nhiều nỗ lực tăng cường công tác quản lý nhà nước trong xử lý chất thải rắn đô thị.  Hiện nhiều địa phương đã đầu tư, ban hành nhiều chính sách để xây dựng những dự án phân loại rác từ đầu nguồn sinh hoạt. Tuy nhiên, phần lớn chương trình mới dừng lại ở mức độ thí điểm hẹp khiến công tác phân loại này vẫn chưa có lời giải rốt ráo, việc chôn lấp vẫn là phương án "chẳng đặng đừng".

Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Văn An chia sẻ tại tọa đàm

Quan điểm lâu nay của Đảng và Nhà nước là không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, bảo vệ môi trường luôn là yêu cầu xuyên suốt và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp đã nghiên cứu, ban hành và tổ chức thực hiện nhiều kế hoạch bảo vệ môi trường. Như Chỉ thị 41/CT-Ttg năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu tạo chuyển biến căn bản trong xử lý rác thải rắn, trong đó chú trọng việc phân loại rác thải nguồn.

Một thuận lợi nữa là gần đây các bộ, ngành, địa phương đã dành nguồn lực tương đối tốt, năm sau cao hơn năm trước để xử lý vấn đề này. Luật Bảo vệ môi trường mới đây cũng đề cao, ghi nhận vấn đề bảo vệ môi trường bền vững.

Khó khăn trong phân loại, thu gom và phân loại chất thải rắn cần được giải quyết bằng việc quản lý nguồn rác thải ngay từ hộ gia đình, cơ sở sản xuất. Trước năm 2000, chúng ta chưa có chính sách đề cập phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Mặt khác, chúng ta cũng chưa có chính sách để khuyến khích người dân, chủ cơ sở sản xuất chủ động phân loại từ đầu nguồn theo tinh thần tự giác, trách nhiệm.

Và cuối cùng, công tác quy hoạch bãi chôn lấp ở địa phương còn khó khăn vì công tác quy hoạch chưa phù hợp, thường xuyên gặp phải sự phản ứng của người dân dẫn đến sự lúng túng trong công tác quản lý nhà nước. 

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Minh Lâm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An, Long An là tỉnh có mức độ công nghiệp hóa, đô thị hóa khá cao, lượng chất thải rắn sinh hoạt lớn. Tỉnh đã đặt mục tiêu đến năm 2025, tỉ lệ thu gom và xử lý rác thải khu vực đô thị đạt 100%; Tỉ lệ thu gom và xử lý rác thải khu vực nông thôn 95%; 100% các huyện phải lập bộ và tổ chức thu đúng, thu đủ số tiền phí dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải trên địa bàn huyện quản lý. Từ đó, hướng đến ngân sách không còn cấp kinh phí cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Để hướng tới mục tiêu này, công tác quản lý, xử lý chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh sẽ được thực hiện thế nào thưa ông?

Ông Nguyễn Minh Lâm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An:

Thu gom, xử lý rác sinh hoạt là vấn đề rất khó khăn trong suốt thời gian qua, là tình hình chung của cả nước và Long An cũng nằm trong tình trạng này. Tuy nhiên, với quyết tâm phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, nên tỉnh rất quan tâm và đưa chỉ tiêu thu gom, xử lý rác vào nhóm chỉ tiêu thực hiện trong Nghị quyết Đảng bộ lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An Nguyễn Minh Lâm chia sẻ tại điểm cầu tỉnh Long An

Tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025, tỉ lệ thu gom và xử lý rác thải khu vực đô thị đạt 100%, cao hơn chỉ tiêu chung cả nước – là 90% theo Nghị quyết số 16 của Quốc hội, với khu vực nông thôn là 95%. Để thực hiện được mục tiêu trên là rất khó. Nhưng với sự quyết tâm, lãnh đạo tỉnh cũng ban hành nhiều văn bản để triển khai thực hiện, từ chỉ thị, kế hoạch phân công cụ thể cho từng ngành, từng cấp, các địa phương trong tỉnh phải triển khai thực hiện.

Theo kế hoạch của Ủy ban Nhân dân tỉnh về quản lý, thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2025, đặt mục tiêu 100% các huyện phải lập bộ và tổ chức thu đúng, thu đủ số tiền phí dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải trên địa bàn huyện quản lý. Từ đó, hướng đến ngân sách không còn cấp kinh phí cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Đây là ràng buộc rất quan trọng để các địa phương phấn đấu phải thu đúng, thu đủ, bảo đảm nguồn lực xử lý rác, tỉnh không còn bao cấp. Thực tế hiện nay công tác này vẫn chưa thực hiện triệt để, việc lập bộ, tổ chức thu gom vẫn chưa bảo đảm kinh phí. Do đó, ngoài kinh phí thu được từ các hộ dân mà các địa phương thu được, ngân sách vẫn phải hỗ trợ một phần kinh phí cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác sinh hoạt. Hàng năm kinh phí này khá lớn, ngoài kinh phí sự nghiệp môi trường, tỉnh phải sử dụng ngân sách để bổ sung thêm.

Xét thấy phải nâng tầm vai trò, trách nhiệm của các địa phương trong thu gom rác thải, và người dân cũng phải thực hiện. Đặc biệt trong thời gian tới, khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có quy định ngày 1.1.2022, với rác sinh hoạt phải được phân loại tại nguồn, do đó, người dân phải thực hiện việc phân loại rác thải tại nguồn và tỉnh không còn cấp kinh phí cho việc thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải. Theo quy hoạch xử lý rác thải đến năm 2025, trên địa bàn tỉnh phát sinh lượng rác khá lớn, khoảng 1.130 tấn/ngày, quan điểm của tỉnh là rác thải phải được phân loại tại nguồn, để có thể dễ dàng vận chuyển, tái chế, qua đó góp phần giảm lượng rác thái cần xử lý, tăng lượng rác thải có thể tái chế, rác còn lại phải được xử lý, tinh thần là công nghệ đốt.

Về phân loại rác tại nguồn, trên địa bàn tỉnh Long An cũng đã chủ động khá sớm và được hỗ trợ của tổ chức quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên Việt Nam trong việc thí điểm phân loại tại nguồn tại một số địa điểm trên địa bàn tỉnh. Chương trình về cơ bản cũng đã tổng kết thành công và nhận được sự đồng tình của người dân. Tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các địa phương còn lại để đồng loạt thực hiện phân loại rác tại nguồn. Như vậy, việc triển khai khi Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực, đối với quy định phân loại rác tại nguồn trên địa bàn tỉnh có nhiều thuận lợi.

Về định hướng xử lý rác còn lại sau khi rác được phân loại, tái chế, sản xuất phân compost, sẽ xử lý bằng công nghệ đốt. Tỉnh cũng đã xây dựng kế hoạch, giải pháp cụ thể như bố trí, xây dựng các điểm tập kết, trung chuyển rác thải, xây dựng các khu xử lý rác thải tập trung cho từng huyện, từng địa điểm xử lý theo từng giai đoạn cụ thể. Đây là quyết tâm của tỉnh trong chỉ đạo.

Ngoài ra, tỉnh cũng đang kêu gọi đầu tư xã hội hóa nhà máy xử lý rác xử lý công nghệ có phục hồi năng lượng, không đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tỉnh và các địa phương băn khoăn liên quan đến các công nghệ xử lý rác. Ở đây có ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho Bộ giúp cho các địa phương, về công nghệ xử lý rác, cụ thể là đối với rác bây giờ chúng ta đã quy định rác thải phải phân loại tại nguồn, nhưng phân loại xong rồi phải xử lý, sản xuất ra phân compost như thế nào? Việc quản lý, sử dụng đầu ra của phân này ra sao, cần sớm hướng dẫn cho các địa phương. Nếu chúng ta phân loại xong, xe lấy rác gom lại chung nhau, đổ rác thải là việc làm không hiệu quả. Nếu chúng ta làm tốt sản xuất phân compost, lượng rác còn lại không nhiều sử dụng công nghệ đốt là công nghệ nào? Hiện nay, video clip đã nêu công nghệ tối ưu là công nghệ plasma, nhưng thực tế hiện nay trên địa bàn nước ta, ứng dụng công nghệ này chưa phù hợp, chi phí đầu tư công nghệ này rất cao, vận hành cũng cao, đòi hỏi lượng rác phải phù hợp... Công nghệ hiện nay là điểm nghẽn trong xử lý rác ở các địa phương.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Những bất cập, tồn tại cần tháo gỡ trong công tác quản lý rác thải sinh hoạt

Nhiều cơ chế, chính sách, quy định và hướng dẫn quản lý tổng hợp chất thải rắn sinh hoạt đã được hoàn thiện và ban hành như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24.4.2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu; Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01.12.2020 về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn;; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10.01.2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường…

Mặc dù đã có các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ về vốn đầu tư, xây dựng các nhà máy xử lý rác thải, tuy nhiên, số dự án xử lý chất thải rắn được vay vốn từ các nguồn vốn ưu đãi rất ít, các cơ chế cụ thể về ưu đãi cho các hoạt động tái chế, tái sử dụng chất thải, tận thu năng lượng từ quá trình xử lý chất thải rắn còn thiếu và chưa đồng bộ. Việc xác định xử lý riêng rẽ các loại chất thải khác nhau chưa được làm rõ trong các đồ án quy hoạch dẫn đến công tác đầu tư, quản lý còn gặp khó khăn.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Quang Huân, thực hiện pháp luật liên quan đến quản lý rác thải sinh hoạt hiện nay đang có vướng mắc giữa quy định chặt chẽ và khả năng đáp ứng thực tế như quy hoạch đất bố trí nơi chôn lấp, xây dựng nhà máy xử lý... Vậy ông đánh giá vấn đề này như thế nào?

Ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam:

Để thực hiện tốt Luật Bảo vệ môi trường 2020, còn rất nhiều vấn đề phải thay đổi, chú trọng giải quyết rốt ráo. Ví dụ Điều 80 có quy định phải xử lý các bãi rác hiện hữu, tức là hoàn nguyên bãi rác. Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, chúng ta đang thải ra khoảng 31,3 triệu tấn CO2 một năm, nếu không thay đổi gì thì tới năm 2050, chúng ta sẽ thải ra hơn 60 triệu tấn CO2 một năm. Năng lực hấp thụ của rừng nước ta hiện nay khoảng 60-70 triệu tấn/năm, như vậy cây xanh của chúng ta chỉ đủ để hấp thụ lượng khí thải sinh ra do rác, không thể thực hiện được mục tiêu phát thải khí nhà kính bằng 0 vào năm 2050 đã cam kết tại COP26. Bởi thực tế chúng ta còn nhiều ngành như năng lượng, giao thông, nông nghiệp… cũng gây phát thải khí metan.

Nếu bắt tay ngay từ bây giờ vào xử lý rác thải và với kịch bản tốt nhất thì đến năm 2050 chúng ta vẫn còn thải ra không khí 18,2 triệu tấn CO2 một năm. Chúng ta phải tìm kiếm công nghệ phù hợp để có thể xử lý rác thải được hiệu quả nhất. Có rất nhiều công nghệ tiên tiến nhưng chúng ta phải xem xét là có phù hợp hay không. Như công nghệ plasma, nếu dùng để đốt rác thì chắc chắn sẽ sạch. Nguyên tắc xử lý bằng plasma phải đưa nhiệt trị rất lớn, khoảng 4.000 độ C, điều này đòi hỏi chi phí để cung cấp được lượng nhiệt trị này sẽ rất lớn. Khi đầu tư lớn như vậy, một số tỉnh có ngân sách lớn thì có thể đáp ứng được, nhưng nếu các tỉnh ngân sách ít hơn thì không đủ khả năng chi trả. Nếu nhà đầu tư không thấy có lời họ sẽ không đầu tư, nếu không dùng nguồn kinh phí từ xã hội hóa mà dùng nguồn từ vốn ngân sách thì sẽ rất khó khăn, khó khả thi. Vậy nên phải tìm kiếm loại công nghệ vừa đáp ứng xử lý được đặc trưng rác sinh hoạt của Việt Nam và các địa phương có đủ kinh phí để áp dụng.

Hiện nay, không phân loại nên lượng chất vô cơ trong rác như plastic, nhựa, lốp xe…khá nhiều. Nếu chỉ đốt rác bằng công nghệ thông thường thì lượng khí thải độc hại sẽ rất lớn. Nếu công nghệ áp dụng không được thẩm định kỹ, không xử lý được lượng khí thải độc hại sinh ra thì sẽ rất nguy hiểm. Đây chính là khó khăn cho các địa phương khi lựa chọn công nghệ. Đồng thời, các bãi rác hiện nay nếu không thể hoàn nguyên thì sẽ không thể nào đạt được mục tiêu giảm phát thải nhà kính. Ngoài ra, việc chúng ta đang áp dụng công nghệ mà chưa có hướng dẫn cụ thể như Phó chủ tịch UBND TP Long An đề cập cũng rất nguy hiểm.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Thượng Hiền, để giảm tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt xử lý bằng phương pháp chôn lấp thì cần đẩy mạnh việc xử lý rác thải áp dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến có thu hồi năng lượng để phát điện. Tuy nhiên, cơ chế cụ thể về ưu đãi cho các hoạt động này còn thiếu, chưa đồng bộ. Làm thế nào để tháo gỡ vấn đề này thưa ông?

Ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường:

Luật Bảo vệ môi trường giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) ban hành quy định tiêu chí công nghệ trong lựa chọn công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt. Bộ TN-MT cũng ban hành Thông tư quy định tiêu chí công nghệ trong xử lý rác thải. Thời gian tới, Bộ sẽ ban hành danh mục công nghệ để các địa phương căn cứ điều kiện tình hình kinh tế, lựa chọn công nghệ phù hợp chứ không chỉ có công nghệ đốt, phát điện. Quan trọng là xử lý chất thải kết hợp thu hồi năng lượng để phát điện. Đó là 2 phạm trù hoàn toàn khác nhau.

Đối với các quy chuẩn, trong thời gian tới Bộ TN-MT sẽ hoàn thiện và quy định thêm tỷ lệ tro đáy sau đốt. Hiện nay các nước tiên tiến tro chỉ có 5%, còn chúng ta đốt, tổng cả tỷ lệ tro bay và tro đáy sau đốt lên đến 15%. Tuy nhiên, phải có thời gian, lộ trình để tiếp tục hoàn thiện chính sách này.

Về vấn đề ưu đãi trong xử lý chất thải sinh hoạt, Bộ TN-MT đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định 08/2022/NĐ-CP, trong Phụ lục về vấn đề chính sách ưu đãi trong đó có ưu đãi về xử lý chất thải sinh hoạt. Cụ thể, ưu đãi về đất, công nghệ. Đối với các dự án về đốt rác phát điện thì phải có sự kết hợp với Bộ Công thương đưa vào quy hoạch. Để đưa chính sách vào cuộc sống thì phải tiếp tục nghiên cứu cụ thể, ví dụ về định mức kinh tế kỹ thuật trong vấn đề thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải. Trước đây đã có, hiện nay Bộ TN-MT cũng đang nghiên cứu để định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp. Nhà đầu tư quan tâm đến 2 vấn đề là lợi nhuận và đáp ứng quy chuẩn bảo vệ môi trường, do vậy, muốn được lựa chọn công nghệ tốt thì định mức kinh tế kỹ thuật phải rõ ràng, minh bạch. Ví dụ, thu gom xe 3 bánh đẩy giá khác, xe cuốn xe ép khác. Tương tự, giá chôn lấp hợp vệ sinh sẽ khác, giá đầu tư công nghệ cao cũng sẽ khác.

Quản lý chất thải rắn sinh hoạt, trong đó có rác thải đô thị, năm 2019 Chính phủ mới giao cho Bộ TN-MT là cơ quan quản lý nhà nước đầu mối về chất thải rắn, giúp Chính phủ và UBND các tỉnh chịu trách nhiệm quản lý về chất thải tại địa phương. Cụ thể, Bộ TN-MT cũng trình Quốc hội Luật Bảo vệ môi trường 2020, trong đó có điều về quản lý chất thải sinh hoạt là một trong những vấn đề làm thay đổi căn bản về tiếp cận chất thải rắn sinh hoạt. Tuy nhiên, để triển khai đưa vào cuộc sống thì phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Các cơ chế chính sách, môi trường pháp lý để các cấp, các ngành và toàn xã hội triển khia thực hiện dù được ban hành nhưng thực thi còn có chỗ vướng mắc. Thưa ông Nguyễn Văn An, từ góc nhìn của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, ông có đề xuất giải pháp gì để các bộ, ngành, địa phương để có thể hoàn thành các chỉ tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội về thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị?

Ông Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:

Việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung, xử lý chất thải rắn đô thị nói riêng, theo tôi vướng mắc lớn nhất vẫn ở khâu tổ chức thực hiện. Bởi nhìn chung hệ thống chính sách pháp luật đã tương đối đồng bộ, có thể giúp công tác quản lý nhà nước thuận lợi, khoa học. Các văn bản, quy định quản lý chất thải rắn phân công công việc rõ nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành.

Đơn cử, ngay tại địa phương việc tổ chức thực hiện cũng chưa sự đồng nhất. Ví dụ có nơi giao Sở Xây dựng, có nơi Sở Tài nguyên và Môi trường, có nơi lại giao cho một doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực môi trường chủ trì. Tuy nhiên, việc thực hiện cụ thể ở cấp huyện lại là phòng chuyên môn thuộc UBND huyện, dẫn đến chưa có sự chỉ đạo xuyên suốt theo một ngành, một lĩnh vực.

Hiện nay, việc quy hoạch địa điểm xây dựng công trình tại địa phương đang khá lúng túng, nhất là lựa chọn địa điểm chôn lấp hoặc lựa chọn công nghệ xử lý ban đầu số chất thải này. Ngay cả việc trung chuyển rác thải cũng gặp nhiều khó khăn về thiết bị trung chuyển, công tác tổ chức điều hành chưa được khoa học, nhất là phân loại rác thải ban đầu.

Ngoài ra, công tác rút kinh nghiệm, sơ kết để có cái nhìn tổng thể cũng chưa được nhiều địa phương tổ chức nghiêm túc, dẫn đến lúng túng trong khâu tổ chức thực hiện.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Anh Dũng, Cán bộ cao cấp, Hợp phần năng lượng tái tạo, dự án 4E, Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ) tại Việt Nam, là tổ chức hợp tác quốc tế đến từ quốc gia phát triển đã triển khai và thực hiện các dự án hỗ trợ tại Việt Nam, theo ông những tiêu chí nào được ưu tiên để lựa chọn công nghệ phù hợp xử lý rác thải sinh hoạt phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và đặc biệt là phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay?

Ông Nguyễn Anh Dũng, Cán bộ cao cấp, Hợp phần năng lượng tái tạo, Dự án 4E, Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ) tại Việt Nam:

Tổ chức hợp tác phát triển Đức tại Việt Nam đã hợp tác và triển khai một số dự án về xử lý rác thải thu hồi năng lượng từ năm 2012. Chúng tôi cập nhật, rà soát, đánh giá lại tình hình để có những khuyến nghị về chính sách cũng như khuyến nghị về mặt công nghệ phù hợp cho những đối tác ở Việt Nam dựa trên một số những tiêu chí.

Tiêu chí thứ nhất, đó là đặc tính rác thải ở Việt Nam có độ ẩm cao, hàm lượng tạp chất không thể đốt, không thu hồi năng lượng được như: đất, cát, kim loại, thủy tinh còn nhiều, có những địa phương tỷ lệ trên 30%, ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn công nghệ thế nào cho phù hợp.

Cán bộ cao cấp, Hợp phần năng lượng tái tạo, Dự án 4E, Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ) tại Việt Nam Nguyễn Anh Dũng chia sẻ tại tọa đàm

Tiêu chí thứ hai, liên quan đến quy mô của nguồn rác thải. Đối với những khu đô thị lớn, việc phát triển những nhà máy xử lý rác thải 2.000, 3.000 tấn/ngày rất đơn giản. Tuy nhiên, đối với những địa phương, những khu đô thị có quy mô nguồn rác thải ít hơn thì đầu tư khó có thể đạt hiệu quả kinh tế như mong muốn. Với công nghệ đốt, phát điện mức độ chênh lệch về hiệu suất đầu tư đối với quy mô lượng rác thải là tương đối lớn, lên đến 30 - 40%. Chính vì vậy, nhà máy có quy mô công suất nhỏ, sử dụng công nghệ này thì khó đạt hiệu quả kinh tế.

Tiêu chí thứ ba, liên quan đến quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường. Đối với những quốc gia phát triển thì tiêu chuẩn về môi trường của họ cũng sẽ rất cao. Tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam để phù hợp với cả trình độ phát triển kinh tế - xã hội thì không thể so được với những nước phát triển. Tuy nhiên, trong tương lai chắc chắn chúng ta sẽ nâng dần những tiêu chuẩn đó lên để đảm bảo cung cấp môi trường sống tốt hơn cho người dân và trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thì người dân cũng sẵn sàng chi trả nhiều hơn để xử lý và bảo vệ môi trường. Tiêu chuẩn môi trường cũng là tiêu chí được đưa ra để lựa chọn những công nghệ tốt, công nghệ cao và sạch nhưng kèm theo đó là sẽ đắt hơn. Công nghệ cao cũng đòi hỏi yêu cầu cao hơn trong việc đầu tư, vận hành, bảo dưỡng, nên khi lựa chọn cũng cần phù hợp với cả trình độ công nghệ của Việt Nam.

Cuối cùng là mức độ người dân sẵn sàng chi trả cho những chi phí về xử lý môi trường. 

Khi rà soát những tiêu chí trên, có thể khẳng định rằng, việc xử lý rác thải để thu hồi năng lượng có hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn so với việc chúng ta chỉ xử lý đơn thuần. Trong những công nghệ xử lý rác thải để thu hồi năng lượng, có 3 nhánh công nghệ mà chúng tôi nghĩ là phù hợp với Việt Nam nhất. Thứ nhất, đó là công nghệ thu hồi khí trong những bãi chôn lấp cần thu hồi khí metan, khí năng lượng. Thứ hai, đó là công nghệ đốt, phát điện phụ thuộc vào quy mô cũng như là đặc tính của rác thải. Thứ ba, công nghệ sinh khí liên quan đến việc xử lý những thành phần rác thải hữu cơ. Đó là ba nhánh chúng ta nên quan tâm để xem xét, lựa chọn những công nghệ phù hợp.

Tuy nhiên, có một vấn đề ảnh hưởng rất nhiều đến công nghệ xử lý rác thải để thu hồi năng lượng, đó là công nghệ về phân loại rác tại nguồn khi người dân cũng tham gia vào việc phân loại rác, đây là mô hình lý tưởng, mô hình mà chúng ta hướng tới. Nhìn từ kinh nghiệm trên thế giới thì việc thay đổi nhận thức của người dân đòi hỏi một quá trình thời gian dài chứ không phải là một vài năm đã có thể tiến hành phân loại rác được theo đúng yêu cầu. Khi đó, sẽ thành lập ra những trung tâm để phân loại rác và từ trung tâm, tách ra những thành phần rác thải không đốt được để sử dụng với mục đích khác. Ví dụ: thành phần về đất, sỏi, đá có thể sử dụng để san lấp mặt bằng nếu như đáp ứng được tiêu chuẩn về môi trường.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Cần giải pháp hữu hiệu về chính sách, quy hoạch và đầu tư

Trước tình hình xử lý chất thải rắn sinh hoạt như hiện nay, để đạt được các mục tiêu về môi trường tại các Nghị quyết của Quốc hội cần có đánh giá đầy đủ, toàn diện về hiện trạng tình hình quản lý, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, đi kèm với những khó khăn, tồn tại và đề xuất kiến nghị các giải pháp tổng thể theo hướng thống nhất, nhằm mục tiêu quản lý chất thải rắn sinh hoạt tốt hơn, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường trong thời gian tới.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Thượng Hiền, theo Nghị quyết của Quốc hội, mục tiêu về xử lý và thu gom chất thải rắn sinh hoạt đô thị đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 89-90%. Vậy Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương căn cứ vào thước đo nào để đánh giá việc hoàn thành các chỉ tiêu này?

Ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường:

Trách nhiệm của UBND cấp tỉnh chỉ đạo các cơ quan địa phương đã được quy định cụ thể trong Luật Bảo vệ môi trường và các nghị định, thông tư. Các địa phương đều có kế hoạch cụ thể để thực hiện các mục tiêu về thu gom chất thải rắn sinh hoạt đảm bảo theo tiêu chuẩn, quy chuẩn và hàng năm có báo cáo gửi Bộ TN-MT tổng hợp. Đối với rác thải sinh hoạt đô thị, hiện nay đưa ra tỷ lệ 89-90%  là tỷ lệ thu gom, về nguyên tắc phải xử lý đạt quy chuẩn môi trường. Trong quá trình vận hành công nghệ máy móc, vận hành các lò đốt có thể xảy ra sự cố, không thể nói đạt được 100%. Tuy nhiên trong Luật nêu rõ nếu xảy ra sự cố thì phương pháp ứng phó như thế nào để không xảy ra thất thoát nước thải ra ngoài môi trường không đáp ứng quy chuẩn.

Hàng năm, Bộ TN-MT đều có văn bản đôn đốc địa phương triển khai thực hiện các nội dung này. Để đạt được mục tiêu, hiện các địa phương đều đang triển khai xây dựng quy hoạch tỉnh. Bộ TN-MT đang triển khai quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia, dự kiến tháng 6 trình Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt. Một trong những nội dung chính của quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia liên quan đến quy hoạch định hướng các khu chất thải rắn, chất thải sinh hoạt chung trên phạm vi toàn quốc. Đây là cơ hội để các địa phương trên thực trạng vừa qua có thể rà soát, đánh giá tổng để đưa ra quy hoạch phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là khâu dự báo trong thời gian tới, vấn đề dự báo phát sinh, dự báo công nghệ…

Thực tế, việc lựa chọn cơ sở xử lý chất thải sinh hoạt không hề dễ dàng đối với các địa phương, thường xuyên nhận được sự phản ứng mạnh mẽ của cộng đồng dân cư. Trên cơ sở các rà soát hạ tầng kỹ thuật từ khâu thu gom, xử lý đến điểm tập kết, trung chuyển… Các địa phương phải tăng cường, rà soát, thực hiện các quy hoạch tỉnh bởi trong quy hoạch tỉnh có quy hoạch liên quan đến vấn đề xử lý chất thải.

Tôi cho rằng, cần đẩy mạnh truyền thông, tuyên truyền, phải làm càng đơn giản, dễ hiểu. Có những clip, video đưa lên các chương trình tivi… Bên cạnh đó, Nhà nước phải có sự đầu tư hạ tầng kỹ thuật, thiết kế điểm lưu giữ thu gom phù hợp. Trong Luật quy định rõ chất thải tái chế được thì hoàn toàn không phải trả tiền, chúng ta có thể bán được, tận dụng nguyên liệu rất tốt. Còn đối với chất thải buộc phải xử lý thì phải trả tiền, trên cơ sở khối lượng và thể tích. Như vậy, không phân loại rác cũng được nhưng sẽ phải trả nhiều tiền, khi rác thải phát sinh nhiều hơn thì trả nhiều tiền hơn. Trong Luật đã quy định có sự vào cuộc của các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng giám sát lẫn nhau, từ mặt trận, từ phường xã tham gia giám sát. Ví dụ như việc phân loại rác không đúng, lần thứ nhất, lần thứ hai có thể nhắc nhở, nhưng lần thứ ba phải xử lý.

Mặt khác, việc ứng dụng công nghệ thông tin phải có lộ trình. Ví dụ, điểm thu gom tập kết, Bộ TN-MT sẽ hướng dẫn địa phương đưa vào bao bì chứa đựng rác thải dễ quan sát, dễ nhận định. Ví dụ, bỏ chất thải vào túi không mất tiền (không phải trả tiền túi), chất thải không phân loại nhưng lại bỏ vào túi thì ứng dụng công nghệ thông tin, giám sát cộng đồng trong xử lý nhắc nhở thì người dân có ý thức hơn và đảm bảo được tỷ lệ thu gom như Quốc hội đề ra. Tương tự, chúng ta phải có rà soát tổng thể, đặc biệt là để nhà đầu tư có khả năng tiếp cận để tham gia lĩnh vực này phải giảm thủ tục hành chính, đơn giản, dễ thực hiện. Thực tế có nhà đầu tư muốn đầu tư nhà máy xử lý rác thì đơn giản, nhưng để đầu tư tham gia dịch vụ thu gom vận chuyển xử lý rác thải tại địa phương lại không hề đơn giản. Vì thực tế liên quan đến nhiều Bộ, còn Bộ TN-MT chỉ ban hành những chính sách liên quan đến vấn đề quản lý, còn thủ tục đầu tư thì lại phải có sự kết hợp giữa các Bộ ngành có liên quan khác

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Các cơ chế chính sách, môi trường pháp lý để các cấp, các ngành và toàn xã hội triển khia thực hiện dù được ban hành nhưng thực thi còn có chỗ vướng mắc. Thưa ông Nguyễn Văn An, từ góc nhìn của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, ông có đề xuất giải pháp gì để các bộ, ngành, địa phương để có thể hoàn thành các chỉ tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội về thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị?

Ông Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội:

Hàng năm, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường về tình hình thực hiện pháp luật, chính sách, nhiệm vụ đối với công tác bảo vệ môi trường đều đề cập sâu sắc đến vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, rác thải rắn... Ở góc độ làm chính sách, có lẽ chúng ta đều mong muốn giải quyết hiệu quả, tái chế rác thải càng sớm càng tốt.

Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới, nếu chôn lấp trong lòng đất, một chai nhựa cần tới 500 năm mới tiêu hủy hết, đồ thủy tinh cần tới 4.000 năm… Đây đều là những vấn đề bức xúc đối với chất lượng cuộc sống của nhân loại.

Về kiến nghị, tôi cho rằng cần thiết tiếp tục phải nghiên cứu đề xuất với Quốc hội chỉ tiêu về bảo vệ môi trường, cụ thể gắn nội dung chiến lược hàng năm, 5 năm, 10 năm phát triển kinh tế- xã hội với bảo vệ môi trường để ĐBQH và cử tri cùng giám sát. Các chỉ tiêu này cần bao quát được tất cả vấn đề của bảo vệ môi trường. Cần thiết có những mục tiêu đột phá trong thời gian tới như: giảm tỷ lệ chất thải chôn lấp, tăng tỷ lệ xử lý rác thải, nước thải cũng như giảm chỉ tiêu khí CO2, bụi mịn... Những chỉ tiêu này cần được lượng hóa thật cụ thể, kèm theo phương pháp đo lường để đảm bảo tính khả thi khi tổ chức thực hiện.

Đề nghị Bộ Tài nguyên, Môi trường chủ trì cùng Bộ Tài chính, chính quyền các địa phương nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền mô hình đầu tư hợp tác công-tư, cơ chế tạo nguồn thu từ thuế, phí bảo vệ môi trường để đầu tư trở lại cho vấn đề này.

Cần sớm tổ chức tổng kết thực hiện để hoàn thiện xây dựng khung chính sách tài chính… nhằm tăng nhanh tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

Các bộ, ngành cần tham mưu Chính phủ hạn chế xử lý chất thải rắn bằng chôn lấp trực tiếp; khẩn trương ban hành tiêu chí công nghệ xử lý rác thải đô thị và rác thải sinh hoạt; bố trí mặt bằng để khâu tập kết, xây dựng trạm trung chuyển đạt tiêu chuẩn kỹ thuật…

Chính quyền địa phương cần rà soát để ưu tiên, bố trí vốn thực hiện các dự án đầu tư công, nhất là hạ tầng phục vụ thu gom và trung chuyển chất thải rắn.

Các bộ, ngành Tài chính, Tài nguyên, môi trường, Công thương và chính quyền địa phương cần sớm xây dựng, ban hành đơn giá chất thải rắn sinh hoạt, hay đơn giá thu mua điện từ các dự án đốt rác nhằm thu hút nhà đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong xử lý rác thải sinh hoạt.

Để các bộ, ngành và địa phương hoàn thành chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, cần thiết triển khai cơ chế, chính sách hiện hành để thu hút nguồn lực xã hội, xã hội hóa công tác thu gom.

Đối với công tác giám sát chỉ tiêu xử lý chất thải rắn trên, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Quốc hội, vào tháng 5, 6 tới, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ tổ chức một phiên giải trình để các bộ, ngành báo cáo công tác tổ chức thực hiện các chương trình, dự án, cách thức tổ chức đang thực hiện. Ủy ban sẽ mời chuyên gia các lĩnh vực từ ngành Tài nguyên, môi trường, các lĩnh vực liên quan để cùng thẩm tra các con số, kết quả tổ chức thực hiện, tỷ lệ chi tiết cũng như nắm bắt hiện trạng, tồn tại của các địa phương để có những kiến nghị lên Quốc hội, Chính phủ điều chỉnh chính sách cho phù hợp.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Quang Huân, ông có kiến nghị gì để có thể triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn sinh hoạt? Đặc biệt là để khuyến khích khu vực tư nhân tiếp cận, áp dụng các công nghệ tiên tiến phù hợp trong xử lý chất thải rắn sinh hoạt?

Ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam:

Chúng ta cần tập trung vào hai vấn đề, một chính sách, hai là các biện pháp thực thi.

Về vấn đề chính sách, thực tế là từ trước đến nay việc quản lý rác thải sinh hoạt do Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm, và gần đây Bộ Tài nguyên và Môi trường đã bắt đầu tiếp quản tất cả các vấn đề liên quan đến môi trường. Điều này đã đặt ra vấn đề, như thế nào là xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn.

Điều này chúng ta cần phải làm rõ, không thể ngồi chờ đủ cơ chế, chính sách đủ mới làm. Chúng ta không thể chờ rác được phân loại mới xử lý mà chúng ta phải xử lý ngay.

Thứ nhất, nếu như quản lý nhà nước về xử lý rác thải đã tập trung một mối về Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường phải có hướng dẫn cho các địa phương biết như thế nào là công nghệ phù hợp, còn địa phương phải có quyền quyết định lựa chọn công nghệ nào cho phù hợp thông qua đấu thầu.

Thứ hai, đấu thầu thì sẽ dựa theo luật nào. Hiện nay chúng ta có những luật chi phối như Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công… thậm chí liên quan tới Luật Đất đai, chẳng hạn như trong Điều 78 trong Luật Bảo vệ môi trường nêu rằng, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quy hoạch, bố trí quỹ đất cho khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt, thực hiện việc giao đất kịp thời để triển khai xây dựng và vận hành khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn…

Nhưng hiện nay một số địa phương rất e ngại vì sợ vi phạm Luật Đất đai, vì vậy mà địa phương yêu cầu phải đấu thầu đất. Nếu vậy thì nhà đầu tư sẽ vào đấu thầu đất trước hay đấu thầu công nghệ trước? Theo tôi, điều này rất vướng cho địa phương và chúng ta phải có những hướng dẫn cụ thể về lựa chọn công nghệ và cách thức đấu thầu. Bộ Tài nguyên và Môi trường nếu có thể tháo gỡ vấn đề này cho các địa phương thì sẽ rất tốt.

Chúng ta cũng cần phải nghiên cứu vấn đề khuyến khích công nghệ mới. Hiện nay nếu chúng ta không đột phá về công nghệ, thì ngay cả chỉ tiêu “net zero" về phát thải khí nhà kính bằng không cũng khó có thể thực hiện. Nếu chúng ta không đột phá công nghệ thì chúng ta sẽ mãi là nước phát triển trung bình đi sau các nước giàu.

Vậy thì chúng ta đột phá công nghệ bằng cách nào? Chúng ta phải sử dụng công nghệ trên thế giới chưa dùng, phải mạnh dạn và phối hợp với các bên để tìm cách để khắc chế những rủi ro có thể xảy ra. Và khi chúng ta đột phá công nghệ thì một tương lai tươi sáng sẽ được mở ra. Không phải chỉ xử lý tại Việt Nam mà chúng ta có thể xuất khẩu sang Đông Nam Á và xuất khẩu thế giới. Nếu chúng ta không chấp nhận rủi ro thì sẽ không bao giờ có được kết quả lớn.

Một vấn đề chính sách nữa là về mặt tài chính. Hiện nay hầu như chỉ có những địa phương có thu ngân sách lớn, những thành phố lớn như TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đà Nẵng… mới có thể kêu gọi các nhà đầu tư vào để xử lý rác, đốt rác phát điện.

Vậy nếu chúng ta chỉ xã hội hóa nhà đầu tư thì vẫn sẽ là một gánh nặng lớn lên cơ quan nhà nước. Thay vì cơ quan nhà nước Trung ương thì lại đè nặng xuống cho cơ quan nhà nước của địa phương phải gánh chịu.

Ngoài ra, khi chúng ta đã có chính sách hướng dẫn thì địa phương cũng cần phải có những cách làm minh bạch. Ví dụ như chúng ta không có hướng dẫn đấu thầu cụ thể và khi yêu cầu các nhà đầu tư trình bày về công nghệ, phương án xong, các nhà đầu tư bị lộ thông tin dẫn tới không được lựa chọn. Hay việc cấp đất cho các nhà đầu tư, các địa phương cũng phải xem xét rất kỹ trước khi quyết định.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Trần Hợp Dũng, thành phố Hà Nội gỡ vướng trong đầu tư dự án điện rác như thế nào? Ông có đề xuất gì để các nhà đầu tư có cách thức thực hiện dự án đầu tư đốt rác phát điện hiệu quả nhất? Là tỉnh đứng thứ hai trên cả nước về quy mô dân số ước tính hàng triệu người với lượng chất thải rắn sinh hoạt 7.000 tấn/ ngày, để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường, tránh phí nguồn tài nguyên, công nghệ nào được Hà Nội ưu tiên áp dụng để xử lý rác thải?

Ông Trần Hợp Dũng, Phó trưởng ban Đô thị, HĐND thành phố Hà Nội:

Hội đồng Nhân dân giám sát thực hiện các tiêu chí về môi trường của Hà Nội theo Nghị quyết của Quốc hội, các cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm triển khai chính và nếu như mà không thực hiện được các chỉ tiêu, tiêu chí đề ra thì trách nhiệm sẽ thuộc về ai?

Thứ nhất, cá nhân tôi cho rằng, chất lượng công nghệ xử lý rác thải phải phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương. Chúng ta phải nhìn nhận thẳng rằng, vấn đề là hiện nay nếu mà có chính sách hay và có sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước, nhưng không có sự đồng thuận của người dân hoặc là tập quán sinh hoạt của người dân không phù hợp thì hiệu quả của khoản đầu tư đó cũng sẽ rất thấp.

Hiện nay, tại 30 quận, huyện của Hà Nội thì chỉ có một số quận, huyện làm rất tốt vấn đề thu gom, phân loại rác. Rõ ràng là việc xử lý và phân loại tốt sẽ mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên nhìn nhận vấn đề này một cách “quá là màu xám". Tôi nghĩ rằng, vấn đề môi trường cũng có rất nhiều mảng sáng, đặc biệt là trong vấn đề phân loại rác.

Trước đây, Hà Nội cũng đã thực hiện phân loại rác 4R. Sau này, tại các khu chung cư đền có khu vực phân loại rác hữu cơ và vô cơ riêng. Tuy nhiên, việc phân loại rác vẫn chưa được thực hiện một cách triệt để. Những đó là tiền để ban đầu để chúng ta nhìn nhận thấy rằng, việc mà tổ chức lựa chọn công nghệ phải được thực hiện một cách tổng thể. Cá nhân tôi không lựa chọn làm một công nghệ nào cả, mà chúng ta có thể lựa chọn ba, bốn loại công nghệ khác nhau để mang lại hiệu quả cao hơn trong vấn đề xử lý rác.

Tôi cho rằng, việc lựa chọn công nghệ phải đặt trong các mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn hạn. Tức là hiện nay chúng ta chưa phân loại tốt, do đó vẫn buộc chúng ta vẫn buộc phải chấp nhận…

Hà Nội hiện giờ có hai bãi xử lý rác lớn. Hiện nay cả hai bãi này đều phải dùng đến các ô khẩn cấp. Nếu vẫn không kịp đưa các nhà máy xử lý rác thải vào vận hành mà cứ đòi hỏi công nghệ gì đó thì chắc chắn là vấn đề về môi trường sẽ rất nghiêm trọng.

Ở những năm tiếp theo, ở mục tiêu trung hạn thì chắc chắn là sẽ có những công nghệ mới ra đời. Đặc biệt, hiện nay chính quyền Hà Nội đã tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ các chính sách đầy đủ để các nhà đầu tư vào cuộc. Thế nhưng bên cạnh đó, chúng ta phải nhìn nhận việc vào cuộc của các chính quyền cơ sở là hết sức quan trọng. Trước tiên là phải tăng cường tuyên truyền cho người dân, phát động phong trào cùng các chi Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh… Ví dụ như huyện Gia Lâm, quận Cầu Giấy… đã làm rất tốt vấn đề này. Ngoài ra, chính quyền cơ sở cũng cần thực hiện nghiêm việc giám sát, kiểm tra hành vi vi phạm trong vấn đề về môi trường.

Việc vào cuộc của chính quyền địa phương và sự đồng hành cùng với các dây chuyền công nghệ sẽ mang lại hiệu quả cao trong vấn đề môi trường.

Thứ hai, đầu năm 2022, Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội đã giao cho Ban đô thị giám sát dự án chậm triển khai là nhà máy xử lý nước thải Sơn Đồng.

Qua đó, chúng tôi nhận thấy hiện nay các chính sách đã rất là đồng bộ, nhưng có nhiều chính sách chưa được cụ thể. Ví dụ như việc xây dựng định mức đơn giá, nếu mà theo quy định của Nghị định 32 nay là phải có giá gói thầu thì mới tổ chức đấu thầu, lựa chọn đơn vị cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực đó. Thế nhưng trên thực tiễn, muốn có định mức đơn giá nhưng lại không có cơ chế cho nhà máy vận hành vì có đấu thầu.

Chúng tôi kiến nghị: Một là đối với các đơn vị chậm triển khai dự án có dấu hiệu vi phạm, đề nghị UBND thành phố yêu cầu Thanh tra thành phố vào cuộc, chứ không phải chỉ giám sát.

Hai là chúng tôi cũng đã trao đổi với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng để các cơ quan này xin ý kiến Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên, Môi trường nhằm tạo sự đồng thuận trong hướng dẫn việc vận dụng áp dụng đơn giá như đầu tư xây dựng cơ bản. Ví dụ trong dịch vụ công thì không có vận dụng xuất vốn đầu tư, không có vật dụng đơn giá. Những đối với dịch vụ công này, chúng ta cũng phải mạnh dạn đề xuất để làm cơ sở tổ chức đấu thầu, vì nếu không có đấu thầu thì công tác quyết toán lại trở thành “điểm nghẽn".

Đối với vấn đề công nghệ, cá nhân tôi vẫn nghĩ rằng, chúng ta cần xây dựng những mô hình khác nhau. Hiện nay, hành phố Hà Nội đã chỉ đạo các sở chuyên ngành và yêu cầu Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường sớm thống nhất về việc chuyển đổi chức năng, nhiệm vụ, quản lý để mà có một đầu mối chịu trách nhiệm chung.

Bên cạnh đó, cũng cần tham mưu với thành phố xây dựng các khu xử lý rác theo những công nghệ phù hợp. Ví dụ cái khu vực phía Nam Hà Nội là khu vực tương đối trũng. Do đó, phải căn cứ vào thổ nhưỡng để có những nhà máy xử lý rác có công nghệ phù hợp.

Đối với vùng được theo quy hoạch là vùng, cụm công nghiệp, làng nghề thì cần có ứng xử khác nhau giữa cự ly vận chuyển, cự ly trung chuyển và Hà Nội cũng đã nhận diện rất rõ vấn đề này để xây dựng, điều chỉnh lại những quy hoạch xử lý chất thải cho phù hợp. Đây là cái cái bước tiệm cận Hà Nội để dẫn tới sự lựa chọn những công nghệ xử lý rác cho phù hợp. Thực tế, Hà Nội đã có điều chỉnh công suất nhà máy rác Seraphine (ở thị xã Sơn Tây) từ 700 tấn lên 1.500 tấn/ngày… 

Ngoài ra, chúng ta cũng phải có những chính sách khuyến khích đầu tư, thậm chí là mạnh dạn đề xuất các hướng giải quyết, xử lý sai phạm mạnh tay hơn. Mặt khác, đối với các đơn vị làm tốt, có hiệu quả thì cũng phải có những cơ chế hỗ trợ thêm.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Theo Nghị quyết của Quốc hội, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn, sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn 89%, có lẽ thành phố Hà Nội cũng đã có Nghị quyết để thực hiện các tiêu chí này, vậy trong quá trình giám sát và thực hiện thì đâu là thước đo độ hoàn thành các tiêu chí? Nếu không hoàn thành thì trách nhiệm thuộc về cơ quan nào?

Ông Trần Hợp Dũng, Phó trưởng ban Đô thị, HĐND thành phố Hà Nội:

Từ nhiệm kỳ trước, Hà Nội đã có nghị quyết về tỷ lệ thu gom, xử lý rác thải đạt tiêu chuẩn ở đô thị là 100%, hiện nay đã đạt được mục tiêu này. Còn mục tiêu về thu gom rác thải nông thôn đạt tiêu chuẩn 95% chưa hoàn thành bởi tỷ lệ thu gom rác thải nông thôn mới chỉ đạt hơn 80%.

Tiêu chí đã rõ ràng, tuy nhiên trong quá trình thực hiện có thể một số đơn vị chưa hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ do những yếu tố khách quan, chủ quan. Cụ thể, tại nông thôn chưa đạt chi tiêu đề ra là vì hiện nay nông thôn chúng ta chưa kiểm soát tốt việc đổ rác thải ra ruộng đồng, kênh mương,…

Các quy định cũng đã phân cấp trách nhiệm rất rõ đến chính quyền của các quận, huyện, xã, phường và sẽ xử lý người đứng đầu nếu địa phương đó không đạt các tiêu chí đề ra. Đây là thước đo không chỉ của các cơ quan tài nguyên môi trường, thanh tra chính quyền các quận, huyện mà bản thân HĐND TP. Hà Nội cũng đã áp dụng các tiêu chí này.  Tuy nhiên, việc xử lý còn phụ thuộc vào việc xây dựng các cơ sở dữ liệu, thu thập thông tin để cơ quan chức năng xử lý kịp thời.

Hà Nội đã có Quyết định 14/2021 thay thế Quyết định 41/2017 về việc phân cấp cho quận, huyện trong vấn đề thu gom, xử lý rác thải. Trách nhiệm quản lý được quy định cho người đứng đầu các quận, huyện đã được phân cấp, kể cả vấn đề lựa chọn đơn vị nhà thầu, tổ chức đấu thầu theo Luật đấu thầu, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện, xử phạt những đơn vị vi phạm… Hà Nội đã củng cố và tập trung đầu mối quản lý cũng như phân trách nhiệm cho các đơn vị có liên quan trong vấn đề thu gom, xử lý rác thải…

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Minh Lâm, Long An sẽ có những giải pháp nào để nâng cao năng lực thu gom, xử lý rác của thành phố bảo đảm tiêu chí Quốc hội đề ra?

Ông Nguyễn Minh Lâm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An:

Quan điểm của tỉnh là phải đẩy mạnh thực hiện công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức của người dân trong công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt cụ thể với rác thải là phải thực hiện tốt công tác phân loại rác tại nguồn.

Điều thứ hai liên quan đến hiệu quả quản lý khối lượng rác, đó là việc quy hoạch mạng lưới thu gom, vận chuyển, xử lý rác. Đây là vấn đề quan trọng, cần công khai quy hoạch này để các địa phương nắm được, triển khai tới từng người dân, hình thành mạng lưới thu gom bảo đảm bài bản, chặt chẽ, đáp ứng được các vấn đề môi trường, không để rác tồn đọng, gây ảnh hưởng đến môi trường.

Vấn đề nữa cũng rất quan trọng, đó là tỉnh cũng sẽ thực hiện xã hội hóa trong công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác. Chúng ta biết nguồn lực của Trung ương, của địa phương rất hạn chế. Việc quản lý, điều hành cũng có những hạn chế. Do đó, xã hội hóa trong công tác này cần phải đặc biệt quan tâm để thực hiện.

Vấn đề cuối cùng mà chúng tôi nhận thấy nhiều đại biểu quan tâm, đó là việc xác định công nghệ xử lý cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, bảo đảm hiệu quả xử lý, cụ thể là đáp ứng điều kiện thực tế của địa phương trong việc đầu tư, vận hành, bảo trì, bảo dưỡng cũng như là xử lý đáp ứng khối lượng rác phát sinh trên địa bàn.

Về trách nhiệm, để bảo đảm việc thu gom đạt các tỷ lệ mà tỉnh đặt ra, tỉnh đã giao trách nhiệm xuống các địa phương, dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan của tỉnh, cụ thể là Sở Tài nguyên, môi trường, các cơ quan có liên quan như Sở Xây dựng cũng góp phần để thúc đẩy các địa phương thực hiện. Vấn đề nữa là về trách nhiệm của các ban ngành trong phối hợp giải quyết cơ chế cho các địa phương, bảo đảm giúp cho các địa phương thực hiện tốt trong vấn đề thu gom, xử lý rác thải.

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa ông Nguyễn Anh Dũng, trên phương diện khu vực và quốc tế, ông đánh giá như thế nào về hiện trạng xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam nói chung, đưa rác thải thành tài nguyên, cũng như năng lượng nói riêng…, so sánh với các nước trong khu vực hoặc học hỏi kinh nghiệm tại các quốc gia phát triển (như Đức)?

Ông Nguyễn Anh Dũng, Cán bộ cao cấp, Hợp phần năng lượng tái tạo, Dự án 4E, Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ) tại Việt Nam:

Nếu nhìn ở góc nhìn năng lượng, chúng ta thấy rác thải cũng là tài nguyên có thể sử dụng để phát điện. Giả sử chúng ta chuyển đổi toàn bộ từ 60.000 – 70.000 tấn rác/ngày để phát điện chúng ta sẽ có khoảng 11 – 12 tỷ kw giờ/năm để đưa vào hệ thống điện. Tuy nhiên, nhìn từ góc nhìn về môi trường, đây là dạng tài nguyên bất đắc dĩ, nếu như tài nguyên năng lượng khác như: than, dầu khí chúng ta mong muốn có càng nhiều càng tốt, để có thể khai thác sử dụng, nếu không có thể để dành cho những thế hệ sau có công nghệ, có điều kiện khai thác mang lại lợi ích cho đất nước, nhưng rác thải không thể để dành được và chúng ta cũng không mong muốn có nhiều để phát điện, mà là câu chuyện có càng ít càng tốt. Tinh thần đó, thể hiện trong mô hình quản lý chất thải hiện nay ở các nước phát triển, ngay ở Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực trong điều kiện trình độ đang phát triển thì chúng ta cũng đang hướng theo mô hình đó.

Nói đến mô hình quản lý chất thải hiện đại hiện nay trên thế giới thì đầu tiên phải nói đến câu chuyện giảm tổng lượng chất thải bằng những hình thức ví dụ như "ai" thải rác thải nhiều thì sẽ trả nhiều tiền.... Hay những nhà hàng có thể đưa ra mức phạt cho những thực khách mà họ không sử dụng hết thức ăn, họ để phí nhiều, đó là câu chuyện chúng ta giảm tổng lượng chất thải. Sau khi giảm tổng lượng rác thải đến giai đoạn thứ hai là câu chuyện tái sử dụng liên quan đến rất nhiều ngành công nghiệp khi có thể sản xuất ra những sản phẩm có thể sử dụng lại. Câu chuyện thứ ba là về tái chế, thu hồi những vật liệu để tái chế...

Có thể thấy, câu chuyện xử lý rác thải để thu hồi năng lượng là câu chuyện cuối cùng trong cả một chuỗi quản lý chất thải. Hiện nay, các nước phát triển như Đức, các nước châu Âu đang đi theo mô hình như vậy để làm sao giảm càng nhiều càng tốt lượng chất thải để đưa vào xử lý để thu hồi năng lượng, bởi vì xử lý chất thải để thu hồi năng lượng cũng chỉ là giải pháp. Nói một cách khác, chúng ta vẫn phải tiêu tốn chi phí để xử lý vấn đề đó, trong khi đó, những khâu trước nếu chúng ta làm tốt thì có thể tiết kiệm được chi phí.

Rõ ràng câu chuyện về xử lý rác thải để thu hồi năng lượng vẫn là câu chuyện cần được đưa ra bàn thảo, để giải quyết câu chuyện môi trường trước mắt.

Về vấn đề liên quan tới đấu thầu: Đối với các công nghệ đốt rác để phát điện có hai câu chuyện cần bàn đến là tiền bán điện và chi phí vận hành nhà máy đốt rác do địa phương chi trả. Kinh nghiệm của quốc tế, thì có nhiều nước đã tiến hành đấu thầu cho phù hợp. Ở đó, họ cũng cho đấu thầu thêm giá điện bởi vì giá điện chiếm đến 70% doanh thu của nhà máy. Điều này dẫn đến giá điện sẽ rất cao. Đây là kinh nghiệm để Việt Nam có thể tham khảo để lựa chọn phương án phù hợp, tránh gánh nặng cho các địa phương. Chúng ta nên duy trì một phương án hài hoà, bảo đảm lợi ích cho tất cả các bên và duy trì được tốc độ phát triển kinh tế cũng như xử lý triệt để vấn đề rác thải. Chúng ta nên khuyến khích các địa phương thực hiện các dự án xử lý rác thải càng nhiều càng tốt. Điều này cũng sẽ góp phần giảm gánh nặng cho chúng ta trong vấn đề thu gom, xử lý rác thải…

Phó TBT Nguyễn Quốc Thắng

Thưa quý vị và các bạn!

Trong khuôn khổ buổi Tọa đàm đã làm rõ một số những giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn sinh hoạt từ đó phấn đấu đạt các mục tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội; góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng, các nhà hoạch định chính sách về vấn đề thực trạng công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt và những tồn tại, khó khăn và thách thức ở Việt Nam trong thời gian qua.

Một lần nữa, trân trọng cảm ơn các vị khách quý đã tham gia Tọa đàm ngày hôm nay và mong được gặp lại trong lần đối thoại lần sau.

Xin trân trọng cảm ơn!

Theo Báo điện tử Đại biểu Nhân dân